Nguyễn
Văn Trí
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Xuyên suốt cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), cùng với việc tự lực cánh sinh, VNDCCH luôn
nỗ lực không mệt mỏi để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế cho cuộc kháng chiến, đây là
một nhân tố đảm bảo sự thành công cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Góp
phần tìm hiểu những nỗ lực đó, chúng tôi tập trung tìm hiểu quá trình VNDCCH
tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô từ năm 1950 đến năm
1954.
Trước năm 1950,
VNDCCH đã quan tâm giành sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô và những người cộng sản
Trung Quốc. Đối với Liên Xô, ngay sau khi nước VNDCCH ra đời, Chính phủ Hồ Chí
Minh đã nhiều lần kêu gọi sự ủng hộ về vật chất và tinh thần; đồng thời, kín
đáo khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương trong cuộc kháng chiến
của mình.
Đối với những người cộng
sản Trung Quốc, trước thực tế lực lượng này đang tiến hành cuộc nội chiến chống
chính quyền Quốc Dân đảng, VNDCCH đã hỗ trợ họ nơi trú quân cùng một số nhu yếu
phẩm[1]. Thậm chí, vào giữa
năm 1949, VNDCCH còn điều quân phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc
mở rộng khu giải phóng ở vùng biên giới Trung- Việt.
Nỗ lực của VNDCCH đã
được Liên Xô và những người cộng sản Trung Quốc quan tâm và bí mật ủng hộ. Năm
1947, theo Phrăng xoa Goayô, những người cộng sản Trung Quốc đã giúp VNDCCH mua
vũ khí ở Thái Lan[2]. Về
phía Liên Xô, năm 1948, nước này giúp VNDCCH chuẩn bị mở các cơ sở thông tin ở
Ba Lan và Tiệp Khắc. Vào giữa năm 1949, khi nước CHND Trung Hoa sắp ra đời, các
lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô đã thống nhất chủ
trương cùng giúp nhân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp. Đến tháng
11 năm 1949, tại Đại hội Công đoàn thế giới tổ chức ở Bắc Kinh, CHND Trung Hoa
đã công khai ý định đó khi tuyên bố sẽ tích cực trợ giúp phong trào cách mạng
Đông Dương[3].
Trong hoàn cảnh đó, vào
đầu năm 1950, hoạt động tăng cường vận động sự ủng hộ từ Liên xô, Trung Quốc của
VNDCCH nhanh chóng thu được kết quả to lớn. Thật vậy, tháng 1 năm 1950, Chính
phủ VNDCCH cử một đoàn đại biểu do Hồ Chí Minh dẫn đầu bí mật đến Trung Quốc và
Liên Xô trực tiếp vận động sự ủng hộ; đồng thời, gửi công hàm đề nghị hai nước này
công nhận và lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ. Đáp lại, ngay trong tháng này, Chính
phủ nước CHND Trung Hoa và Chính phủ Liên bang Cộng hòa XHCN Xô viết lần lượt tuyên
bố công nhận và thiết lập ngoại giao cấp đại sứ với VNDCCH. Sang tháng 2 năm
1950, các lãnh đạo Nhà nước Liên Xô và Trung Quốc cùng cam kết viện trợ, nhất
là viện trợ quân sự, cho VNDCCH. Về viện trợ quân sự, Liên Xô cam kết giúp Việt
Nam xây dựng 1 trung đoàn pháo phòng không 37 ly, 5 tấn thuốc ký ninh và một số
xe ô tô vận tải Môlôtôva; Trung Quốc nhận trang bị cho Việt Nam 6 đại đoàn và 1
đơn vị pháo binh, đồng thời Trung Quốc cử cố vấn quân sự giúp Việt Nam về tham
mưu và huấn luyện[4]. Như
vậy, nước VNDCCH đã giành được sự ủng hộ thực tế và to lớn từ bên ngoài, chấm dứt
thời kỳ “chiến đấu trong vòng vây”.
Thế nhưng, việc Liên
Xô và Trung Quốc ủng hộ cách mạng Việt Nam không có nghĩa họ không có cái
nhìn tiêu cực về VNDCCH. Đối với Liên Xô, việc Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải
tán (1945), việc VNDCCH chưa tiến hành cải cách ruộng đất và tỏ ra “trung lập”
trong quan hệ Đông- Tây[5]
đã khiến các nhà lãnh đạo nước này nghi ngờ những người cộng sản Việt Nam mang
tư tưởng “quốc gia”[6]. Tại
Matxcơva, tháng 2 năm 1950, dù Hồ Chí Minh đã cố gắng giải thích về những vấn đề
trên nhưng, theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “quan điểm của Bác Hồ (về việc Đảng
tuyên bố tự giải tán- NVT) chưa nhận
được sự ủng hộ, thường là không thuận lợi”[7];
về vấn đề ruộng đất, Xtalin phê bình VNDCCH “trì hoãn quá lâu cuộc cải cách ruộng
đất”[8].
Đối với Trung Quốc, tuy không chỉ trích việc Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải
tán, nhưng trong vấn đề ruộng đất, nước này biểu thị sự nhất trí với quan điểm
của Liên Xô khi hứa giúp VNDCCH “kinh nghiệm về phát động quần chúng tiến hành
cải cách ruộng đất”[9].
Với thái độ đó, Liên
Xô và Trung Quốc dành cho VNDCCH sự ủng hộ
hạn chế. Về ngoại giao, quan hệ
ngoại giao giữa VNDCCH với Trung Quốc và Liên Xô chưa ở mức cao nhất: Với Trung
Quốc, VNDCCH chỉ được đặt đoàn đại biểu
thay vì đặt đại sứ; với Liên Xô,
VNDCCH phải quan hệ qua trung gian Trung Quốc- Đại sứ Trung Quốc ở Liên Xô đại
diện cho lợi ích của VNDCCH. Về viện trợ
quân sự, đến cuối năm 1950, tuy hai nước cấp cho VNDCCH số lượng đáng kể vũ
khí, trang bị quân sự- 3983 tấn, nhưng trong số đó không có những vũ khí hạng nặng
như đã cam kết- pháo cao xạ 37 ly, pháo lựu 105 ly[10].
Để giành thêm sự ủng
hộ từ Liên Xô, Trung Quốc, VNDCCH tăng cường mối quan hệ với hai nước này như lập
các tổ chức hữu nghị Việt- Xô, Việt- Trung, tiến hành các cuộc thăm hỏi…; đồng
thời, khẳng định lập trưởng giai cấp vô sản của mình: Đảng Cộng sản Đông Dương
ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam; VNDCCH tích cực tuyên
truyền đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Nỗ lực của VNDCCH đã thúc
đẩy mối quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc lên một bước: Quan hệ giữa VNDCCH với
Liên Xô, Trung Quốc lần lượt lên cấp đại sứ- với Trung Quốc vào tháng 4 năm
1951, với Liên Xô vào tháng 4 năm 1952. Bên cạnh đó, từ năm 1951, VNDCCH được
Liên Xô và Trung Quốc giúp xây dựng chính sách kinh tế, tài chính, đào tạo nhận
lực. Về viện trợ quân sự, VNDCCH được Trung Quốc giúp xây dựng một trung đoàn lựu
pháo 105 ly (7/1951), tiếp nhận một số pháo cao xạ 37 ly (1951), súng cối 120
ly (1952). Mặc dù vậy, những cố gắng đó chưa thực sự giải tỏa được những hoài
nghi trong các nhà lãnh đạo Liên Xô và Trung Quốc về những người cộng sản Việt Nam. Những
vũ khí hạng nặng mà phía VNDCCH tiếp nhận có số lượng không nhiều: Súng cối 120
ly có 24 khẩu, pháo cao xạ 37 ly có 4 khẩu[11].
Cho đến cuối năm 1952, phía Trung Quốc chưa hoàn thành xây dựng trung đoàn lựu
pháo 105 ly (nêu trên), phía Liên Xô chưa thực hiện cam kết giúp VNDCCH xây dựng
một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly. Trong điều kiện đó, QĐNDVN vẫn gặp nhiều khó
khăn trong việc chế ngự hỏa lực pháo binh, không quân của quân Pháp[12].
Trong lúc cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn như vậy, từ giữa năm 1951,
với việc hai bên tham chiến ở Triều Tiên ngồi vào bàn thương lượng để đình chiến
theo sáng kiến của Liên Xô, một xu thế
hòa hoãn quốc tế đã được nhen nhóm. Bước sang năm 1952, xu thế này có chiều
hướng gia tăng khi Trung Quốc chủ trương thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
từ năm 1953- một kế hoạch mà Trung Quốc cần dồn lực để tập trung phát triển kinh
tế trong nước hơn là ủng hộ những cuộc chiến tranh bên ngoài. Ứng phó một cách
chủ động với chuyển biến này, VNDCCH chủ trương tăng cường xây dựng thực lực mạnh
mẽ về mọi mặt. Tháng 4 năm 1952, tại Hội nghị Trung ương lần thứ ba, Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Chúng ta cần phải hiểu rõ, vô luận cuộc kháng chiến Triều Tiên sẽ
phát triển thế nào, kết quả thế nào, chúng ta vẫn phải ra sức chuẩn bị lực lượng
của ta cho đầy đủ, lấy tự lực cánh sinh làm gốc, để ứng phó với mọi phát triển
của tình hình, dù tình hình ấy thuận lợi hay gay go thì ta vẫn chủ động”[13].
Thực hiện chủ trương
trên, VNDCCH đẩy mạnh vận động sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc bằng việc nhấn
mạnh hơn vị trí của giai cấp công nhân và nông dân trong sự nghiệp kháng chiến.
Theo đó, từ giữa năm 1952, các cuộc chỉnh Đảng, chỉnh quân được triển khai thực
hiện. Về chỉnh Đảng, tính từ tháng 5
năm 1952 đến tháng 6 năm 1953, đã có 12.200 cán bộ thuộc các cơ quan của Trung
ương, liên khu và tỉnh được học tập về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam, quan điểm
trường kỳ kháng chiến tự lực cánh sinh, chính sách ruộng đất của Đảng. Về chỉnh quân, từ tháng 5 năm 1952, các
đơn vị quân đội từ Liên khu 5 trở ra học tập tài liệu “Mấy vấn đề về cách mạng Việt Nam”, “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”, “Quân đội nhân dân Việt Nam”. Cuộc chỉnh quân này được coi là cuộc học
tập chính trị lớn nhất kể từ ngày QĐNDVN ra đời (12/1944)[14].
Tiếp đó, tháng 9 năm 1952, trong chuyến thăm Liên Xô (bí mật), Hồ Chí Minh đã
cam kết thực hiện cải cách ruộng đất
trong thời gian kháng chiến[15].
Thực hiện cam kết này, tháng 1 năm 1953, tại Hội nghị Trung ương lần thứ tư, Đảng
Lao động Việt Nam thống nhất chủ trương tiến hành cải cách vào năm 1954[16].
Những bước đi trên của
VNDCCH, nhất là chủ trương mới về cải cách ruộng đất được Liên Xô và Trung Quốc
hưởng ứng tích cực. Năm 1953, hai nước tăng cường cam kết viện trợ vũ khí nói
chung và vũ khí hạng nặng nói riêng cho VNDCCH[17].
Nửa đầu năm 1953, phần lớn những cam kết trên đây được thực hiện, trong đó,
phía Liên Xô thực hiện cam kết giúp VNDCCH xây dựng một trung đoàn pháo cao xạ
37 ly. Cùng thời gian này, Trung Quốc cũng hoàn thành huấn luyện, trang bị cho trung
đoàn lựu pháo 105 ly của VNDCCH. Kết quả là, cho đến cuối năm 1953, sức mạnh
phòng không và pháo binh của QĐNDVN tăng lên đáng kể khi có thêm 5 tiểu đoàn phòng
không 12,7 ly[18], 1
trung đoàn pháo cao xạ 37 ly và 1 trung đoàn lựu pháo 105 ly. Tuy nhiên, vào lúc
này, Pháp cũng gia tăng nỗ lực chiến tranh. Họ đặt kế hoạch giành thắng lợi
trong vòng 18 tháng và tăng cường hỏa lực hải, lục không quân[19].
Hơn thế, Pháp còn được Mỹ tăng cường trợ giúp. Số tiền Mỹ viện trợ cho cuộc tái
chiến Đông Dương của Pháp năm 1953 đạt 785 triệu đô la, thậm chí, 28 nhân viên
kỹ thuật hàng không Mỹ đã được điều đến Việt Nam để giúp bảo trì máy bay cho
quân Pháp[20]. Như thế,
dù QĐNDVN được tăng cường sức mạnh, ưu thế hỏa lực trên chiến trường vẫn thuộc
về đối phương.[21]
Như đã trình bày, xu
hướng hòa hoãn quốc tế khởi phát từ giữa năm 1951. Đến giữa năm 1953 xu hướng này
trở nên mạnh mẽ khi các bên tham chiến ở Triều Tiên ký Hiệp định dđnh chiến ở
Bàn Môn Điếm (7/1953). Theo chiều hướng đó, tháng 8 năm 1953, Liên Xô và Trung
Quốc cùng khởi xướng một cuộc hòa đàm để giải quyết vấn đề Đông Dương. Một cuộc
thương lượng về vấn đề Đông Dương khi đối phương chưa hẳn bị suy sụp ý chí chiến
đấu và vẫn chiếm ưu thế hỏa lực trên chiến trường hẳn không thuận lợi cho VNDCCH.
Vì vậy, ban đầu, VNDCCH không hoan nghênh ý tưởng hòa bình đó của Liên Xô và
Trung Quốc. Cuối tháng 8 năm 1953, trong Lời
kêu gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám và ngày độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chúng ta bao giờ cũng chủ trương hòa bình. Nhưng chúng ta
biết rằng cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ có thắng lợi mới tranh được
hòa bình. Chỉ có thống nhất và độc lập thực sự mới có hòa bình”[22].
Song, để tiếp tục giành sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của mình, ngày 26 tháng 11 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố
với một nhà báo Thụy Điển: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút ra được bài học trong cuộc
chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng
và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”[23].
Tán thành thương lượng
nhưng quan điểm đàm phán của VNDCCH khác biệt với quan điểm đàm phán của Liên
Xô và Trung Quốc. Trong khi hai nước này chủ trương chia cắt Việt Nam để
đi đến hòa bình[24]
thì VNDCCH khẳng định “hòa bình không thể tách rời độc lập dân tộc”[25].
Tại cuộc hội đàm với Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc ngày 5 tháng 3 năm 1954, Đại
sứ Việt Nam tại Trung Quốc Hoàng Văn Hoan tỏ ý không đồng tình với việc chia cắt
Việt Nam khi đưa ra lí lẽ ở Việt Nam không có đường phân tuyến rõ ràng và có đến
80% dân Việt sống trong vùng VNDCCH kiểm soát[26].
Chính bởi thế, quyết định mở mặt trận ngoại giao của VNDCCH chỉ giành được sự ủng hộ chừng mực từ Liên Xô và Trung Quốc.
Thật vậy, dù hai nước chuẩn y phần lớn đề nghị viện trợ năm 1954 của VNDCCH
nhưng họ lại trì hoãn chuyển giao một
bộ phận số hàng cam kết đó. Cho đến cuối tháng 4 năm 1954, hàng viện trợ quân sự
năm 1954 giao cho VNDCCH chủ yếu là đạn
dược, hàng hậu cần và phương tiện cơ giới. Số súng, pháo được giao trong thời
gian này chỉ có 19 khẩu DKZ 75 và 14 dàn hỏa tiễn H6[27].
Và, để thuyết phục VNDCCH xích gần quan điểm của mình, theo sáng kiến của Trung
Quốc, giữa tháng 3 năm 1954, các lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô mời Hồ Chí Minh
tới Bắc Kinh và Matxcơva để bàn về cuộc đàm phán dự định ở Geneva[28].
Thực tế tiếp nhận viện
trợ quân sự nêu trên và việc ấn định tổ chức Hội nghị Geneva về Đông Dương của
các nước lớn khiến việc tăng cường vận động sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc
trở nên cấp thiết đối với VNDCCH. Vì vậy, nhận lời mời của các lãnh đạo Trung
Quốc, Liên Xô, cuối tháng 3 năm 1954, Hồ Chí Minh lại bí mật đến Bắc Kinh và Maxtcơva.
Nội dung của những cuộc hội đàm giữa Hồ Chí Minh với các lãnh đạo cao cấp Trung
Quốc và Liên Xô cho đến nay chưa được tiết lộ nhiều, nhưng chúng ta được biết: Phía
Trung Quốc đã khuyến nghị phía VNDCCH có quan điểm thực tế khi đàm phán[29],
đồng thời, cho biết họ không tăng cường trợ giúp VNDCCH nếu chiến tranh mở rộng
với sự can thiệp trực tiếp của Mỹ[30].
Trong hoàn cảnh đó, VNDCCH chủ trương nhượng
bộ ở mức độ nhất định tại cuộc đàm phán ở Geneva. Ngày 1 tháng 5 năm 1954, trong một hướng
dẫn nội bộ về Hội nghị Geneva, Đảng Lao động Việt Nam chủ trương: “Ta không
đánh giá quá cao Hội nghị Geneva nhưng không nên bỏ lỡ cơ hội, phải tranh thủ
làm cho Hội nghị Geneva có thể bắt đầu để đi đến các cuộc gặp gỡ khác”[31].
Theo tinh thần hướng
dẫn trên, tại Hội nghị Geneva về Đông Dương (Hội nghị khai mạc ngày 8 tháng 5
năm 1954), đoàn VNDCCH đã thể hiện thái độ đàm phán mềm dẻo. Ngày 17 tháng 5,
đoàn VNDCCH chấp nhận đề nghị (của đoàn Liên Xô) xem xét vấn đề quân sự trước
thay cho đề nghị (của mình trước đó) xét đồng thời vấn đề quân sự và chính trị
khi giải quyết vấn đề Đông Dương. Hơn thế, ngày 25 tháng 5, đoàn VNDCCH còn đề
nghị: Tập kết quân của hai bên vào những
vùng (N.V.T nhấn mạnh) do Hội nghị quyết định, đường phân tuyến theo điều
kiện tự nhiên, thuận tiện cho giao thông và để mỗi bên có sự kiểm soát hoàn
toàn về hành chính, kinh tế, quân sự ở trong mỗi vùng đó[32].
Trên cơ sở đó, ngày 29 tháng 5, Hội nghị nhất trí: “Đại diện quân sự hai bên cần
gặp nhau ở Geneva và trên chiến trường bàn về việc
tập kết quân, bắt đầu từ vấn đề Việt Nam. Đại diện quân sự Việt Nam và Pháp gặp nhau ở Geneva bắt đầu từ ngày 1 tháng 6”[33].
Chính bởi thái độ nhượng bộ trên của VNDCCH, từ cuối tháng 5 năm 1954, Liên Xô
và Trung Quốc “hào phóng” chuyển cho VNDCCH không chỉ những hạng mục vũ khí đã
chuẩn y mà còn cả những loại vũ khí mà họ vốn không cam kết hoặc VNDCCH chưa
yêu cầu. Sau ngày 20 tháng 5 năm 1954, trong danh mục hàng VNDCCH tiếp nhận từ
Liên Xô và Trung Quốc có 38 khẩu pháo 105 ly, 32 khẩu pháo cao xạ 37 ly ( pháo
cao xạ 37 ly là những hàng không có trong danh mục đề nghị viện trợ năm 1954 của
VNDCCH)[34].
Như vậy, bước vào Hội
nghị Geneva về Đông Dương, quan điểm đàm phán của ba đoàn VNDCCH, Liên Xô và
Trung Quốc đã có sự đồng thuận đáng kể. Tuy nhiên, giữa các đoàn vẫn còn bất đồng
lớn. Tại một cuộc họp của ba đoàn vào cuối tháng 5, hai đoàn Liên Xô và Trung
Quốc thống nhất đề nghị giải pháp chia cắt theo giới tuyến cho vấn đề Việt Nam.
Ngược lại, đoàn Việt Nam
không coi việc chia cắt đất nước là giải pháp thứ nhất, đề nghị: Trước hết, đòi
tuyển cử tự do, đình chiến tại chỗ và điều chỉnh nhỏ (Hà Nội và Hải Phòng có thể
không điều chỉnh); nếu không thực hiện được phương án trên thì mới “tán thành
chia cắt”. Thuyết phục VNDCCH có quan điểm đàm phán gần với quan điểm đàm phán
của mình hơn, ngày 30 tháng 5 năm 1954, Chu Ân Lai thông báo cho Đảng Lao động
Việt Nam về những khác biệt quan điểm trên, đồng thời khuyến nghị phía VNDCCH cần
phải “giải quyết sớn” những khác biệt và có một phương án rõ ràng thích hợp với
“tình hình trước mắt” (N.V.T nhấn mạnh)
cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương nói chung và vấn đề Việt Nam nói riêng[35].
Thắng lợi của nhân
dân Việt Nam
trên chiến trường đã làm Pháp nhụt ý chí chiến đấu nhưng lại làm cho Mỹ “tỉnh dậy”[36].
Quả vậy, dù thất bại trong nỗ lực tổ chức can thiệp tập thể vào Đông Dương hồi
tháng 4 năm 1954, nhưng Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu kiểm soát Đông Dương bằng vũ
lực. Họ chủ trương tiếp tục lập một khối phòng thủ ở Đông Nam Á để bảo vệ khu vực
này trong đó có cả Đông Dương[37].
Trước mắt, nhằm ngăn Pháp “bán tháo” Đông Dương khi khối phòng thủ khu vực dự định
chưa ra đời, từ nửa sau tháng 5 năm 1954, Mỹ bàn với Pháp về những điều kiện cụ
thể cho một cuộc can thiệp quân sự vào Đông Dương. Có thể nói, Đông Dương đang
đứng trước một quyết tâm kéo dài và mở rộng chiến tranh của Mỹ.
Trong hoàn cảnh đó, để
giành thêm sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc trong việc ngăn chặn Mỹ âm mưu kéo
dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, VNDCCH đã quyết định thay đổi quan điểm
đàm phán theo hướng tiến sát đến quan điểm đàm phán của hai nước này. Ngày 4
tháng 6, trong điện trả lời phía Trung Quốc, phía VNDCCH nhất trí giải pháp chia
cắt Việt Nam
thành hai khu vực theo giới tuyến. Nhưng, với quan điểm đấu tranh kiên quyết, phía
VNDCCH chủ trương: “Cố tranh thủ giới tuyến ấy vào vĩ tuyến 16 (ở phía Nam Đà Nẵng
một chút)” và “nếu đối phương không chịu thì ta có thể dịch giới tuyến đó lên
đường số 9 (đường Quảng Trị đi Trung Lào) là cùng”. Hơn thế, tạo cơ sở pháp lí
cho việc giành thống nhất, độc lập quốc gia sau này, phía VNDCCH nhấn mạnh: “Dù
phân tuyến hay điều chỉnh nhỏ cũng chỉ là tạm thời, phải đòi địch tuyển cử tự
do để thống nhất quốc gia”; buộc định phải “thừa nhận độc lập và chủ quyền của
Việt Nam trên toàn cõi Việt Nam”[38].
Nhằm đạt được những mục tiêu trên, trên bàn đàm phán ở Geneva, đoàn VNDCCH không vội hiện thực hóa sự thay đổi của
mình, đến ngày 10 tháng 6, đoàn VNDCCH mới biểu lộ với phía Pháp ý định áp dụng
giải pháp chia Việt Nam làm hai phần
để tập kết chuyển quân[39].
Đến giữa tháng 6 năm
1954, cuộc đàm phán về vấn đề Đông Dương không thêm được thỏa thuận đáng kể nào
và lâm vào bế tắc. Bên cạnh đó, cuộc đàm phán về vấn đề Triều Tiên cũng không
tìm được tiếng nói chung và đổ vỡ (15/6). Tình hình này khiến phía Trung Quốc
và Liên Xô lo lắng về sự tiếp tục của Hội nghị về vấn đề Đông Dương. Tránh cuộc
đàm phán này bị đổ vỡ, ngày 15 tháng 6, Trung Quốc và Liên Xô cùng đề nghị phía
VNDCCH rút quân khỏi Lào và Campuchia theo yêu cầu của đối phương. Tiếp đó, trước
việc Mendes France- một người ủng hộ đàm phán với VNDCCH, lên làm Thủ tướng
Pháp, Trung Quốc (với sự nhất trí của Liên Xô) chủ trương tranh thủ sự kiện này
để thúc đẩy VNDCCH tích cực hơn trong đàm phán bằng việc tổ chức một cuộc gặp
lãnh đạo cấp cao Trung- Việt[40].
Tăng sức thuyết phục cho cuộc gặp dự định ấy, cuối tháng 6, Trung Quốc cùng Ấn
Độ và Mianma ra các tuyên bố ủng hộ cùng tồn tại hòa bình.
Cuộc gặp giữa lãnh đạo VNDCCH và Trung Quốc
được tổ chức ở Liễu Châu (Trung Quốc) từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954. Qua
đây, phía VNDCCH thấy phải hiện thực hóa chủ trương nhượng bộ đề ra từ ngày 4
tháng 6 năm 1954 nhưng vẫn không bỏ quan điểm đấu tranh kiên quyết trong đàm
phán- nhượng bộ có điều kiện. Theo
đó, ngày 7 tháng 7, VNDCCH điện cho phía Trung Quốc và nêu chủ trương nhượng
cho đối phương dùng Đà Nẵng và đường số 9, đổi lại, phía VNDCCH giữ Liên khu V.
Quan điểm này không được Liên Xô, Trung Quốc đồng tình. Ngày 10 tháng 7, (sau
khi trao đổi với phía Liên Xô) phía Trung Quốc điện khuyến nghị phía VNDCCH nêu
điều kiện đàm phán “đơn giản, rõ ràng”, “công bằng hợp lý mà Chính phủ Pháp có
thể nhận được để (…) mau đi đến đình chiến trong hạn 10 ngày”. (Ngày 17 tháng
6, Mendes France tuyên bố sẽ từ chức nếu không đạt được hiệp nghị vào ngày 20
tháng 7)[41].
Trong điều kiện đó, quan điểm đàm phán của VNDCCH thêm một lần điều chỉnh theo
hướng nhượng bộ hơn. Ngày 13 tháng 7, trưởng đoàn VNDCCH Phạm Văn Đồng nêu đề
nghị đặt đường giới tuyến chia cắt Việt Nam đặt ở vĩ tuyến 16 mà không nêu yêu
cầu kiểm soát Liên khu V. Đến ngày 20 tháng 7, sau khi nhiều cuộc trao đổi, VNDCCH
chấp nhận giải pháp chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17, thời hạn tổng tuyển cử sau
ngừng bắn là 2 năm. Ngày 21 tháng 7, Hội nghị đi đến ký kết các hiệp định đình
chiến về Việt Nam, Lào, Campuchia và ra Tuyên bố cuối cùng, kết thúc cuộc thương
lượng về vấn đề Đông Dương.
Nhìn chung lại, từ
năm 1950 đến năm 1954, VNDCCH đã nỗ lực tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của Trung
Quốc và Liên Xô. Trong quá trình đó, phía VNDCCH đã nhiều lần phải có những điều
chỉnh cần thiết cả về chính sách đối nội và chính sách đối ngoại để có được sự
đồng tình, ủng hộ của Trung Quốc và Liên xô. Dù sao, sự ủng hộ, giúp đỡ đó cũng
là một trong những nhân tố góp phần đảm bảo thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam.
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, tháng
2-2013, tr. 37-45.
Download toàn văn bài viết tại: Trang Web NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
[1] Qiang Zhai, China and the Vietnam
war, 1950- 1975, The University of North Caronila Press, chapel Hill and
London 2000, p 11- 12.
[2]Phrăng xoa Gioayô, Trung Quốc và
việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội 1981, tr 73.
[5] Ngày 14 tháng 1 năm 1950, Bộ Ngoại
giao Liên Xô cho rằng: “Có sự không rõ ràng trong thái độ của Chính phủ VNDCCH
về Mỹ. Hồ Chí Minh tránh nói về sự bành trướng của Mỹ ở Việt Nam và cho đến lúc
này, Hồ Chí Minh vẫn tránh nói về bản chất đế quốc của khối NATO và nỗ lực lập
khối phòng thủ Thái Bình Dương của Mỹ”. Dẫn theo Christopher E. Goscha, Courting
diplomatic disaster? The difficlt integration of Vieetnam into the
Internationalist Communist movement (1945- 1950), Journal of Vietnamese
studies, Vol 1, number 1-2, the Regents of the University of California 2006, p
84.http://www.er.uqam.ca/nobel/r26645/articles.php
[6] Benoit de Tréglodé, Những cuộc
tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Liên Xô (1947- 1948), tlđd, tr 11.
[10] Trung Tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, Thống
kê Tổng hợp tình hình tiếp nhận viện trợ từ năm 1950 đến ngày 20 tháng 5 năm
1954, Tập báo cáo nhu cầu viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam từ 1952- 1954,
Hồ sơ 651, Phông Bộ Quốc phòng, tờ số 102.
[11] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, đề tài Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, 1945- 1954, phần thứ ba: Viện trợ vật chất của Trung Quốc
cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tài liệu lưu tại Thư
viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam số K-78, Hà Nội 2007, tr 42- 44; Bộ Quốc
Phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kỹ thuật quân sự Việt Nam
trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), Nxb Quân đội Nhân dân,
Hà Nội, 2002, tr 367.
[12] Trong trận Tu Vũ, cuối năm 1951, phía
VNDCCH dùng một trung đoàn với trang bị súng cối để kiềm chế pháo binh đối
phương nhưng địch vẫn bắn được 5000 viên đạn chi viện cho quân đồn trú, nhiều
mũi tiến công của QĐNDVN bị đẩy lùi. Dẫn theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đường
tới Điện Biên Phủ, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb QĐND, Hà Nội 2001, tr 259,
260, 269.
[13] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng, Toàn tập, tập 13, 1952, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr 151.
[14] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, 1945- 1954, tập
II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1995, tr 198.
[15] Ilya V. Gaiduk, Confronting
Vietnam- Soviet policy toward the Indochina conflict, 1954- 1963, Stanford
University Press, Stanford, California 2003, p 10.
[16] Tuy nhiên, chủ trương cải cách ruộng
đất chỉ được phổ biến xuống cấp khu ủy, tỉnh ủy. Có thể nói, dù phải thay đổi
chính sách ruộng đất nhưng Đảng vẫn rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết dân tộc,
muốn giảm thiểu sự ảnh hưởng của vấn đề ruộng đất đến khối đoàn kết dân tộc.
[17] Năm 1953, VNDCCH được cam kết viện
trợ thêm một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, 1 trung đoan cối 107 ly, 100 khẩu
trọng liên 12.7 ly. Dẫn theo Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Báo cáo về
việc làm viện trợ quân sự năm 1953, Phông Tổng cục hậu cần, Hồ Sơ 490: Báo
cáo về nhu cầu làm viện trợ quân sự năm 1953, tờ số 39.
[18] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, Bộ Quốc phòng 1945- 2000, Biên niên sự kiện, Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội 2003, tr 143.
[19] So với năm 1952, năm 1953, số pháo
mặt đất của quân Pháp tăng từ 522 khẩu lên 546 khẩu, số máy bay tăng từ 348
chiếc lên 460 chiếc, đơn vị xe tăng từ 8 trung đoàn, 3 tiểu đoàn, 9 đại đội lên
9 trung đoàn, 3tiểu đoàn, 7 đại đội. Dẫn theo, Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân
sự Việt Nam, Tổng kết chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp vầ đế quốc Mỹ (1945- 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 2003, tr
493.
[20] William Conrad Gibbons, The US
government and the Vietnam war- Executive and Legislative roles and
relationships, part I, 1945- 1954, Princeton University Press, Princeton,
New Jersey 1986, p 135, 158.
[21]Xem thêm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Điện
Biên Phủ điểm hẹn lịch sử, Hồi ức, Hữu Mai thể hiện, Nxb QĐND, Hà Nội 2000,
tr 15- 16.
[22] Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất
bản lần thứ ba, tập 8, 1953- 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 228.
[23] Hồ Chí Minh, Toàn tập, xuất
bản lần thứ ba, tập 8, 1953- 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2011, tr 340.
[24] Đầu năm 1954, Liên Xô thăm dò phản
ứng của các nước phương Tây và cả VNDCCH về “sáng kiến” chia cắt Việt Nam tại
vĩ tuyến 16. Dẫn theo Ilya V. Gaiduk, Confronting Vietnam- Soviet policy toward
the Indochina conflict, 1954- 1963, Ibid, p 18-19; về phía Trung Quốc, ngày
6 tháng 3 tại Matxcơva, hội đàm với Ngoại trưởng Liên Xô, Molotov, Đại sứ Trung
Quốc tại Liên Xô, Trương Văn Thiên cho rằng: Chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 16
thuận lợi cho VNDCCH. Dẫn theo Woodrow Wilson International Center for
Scholars, Cold war international history project, bulletin: Inside china’s
cold war, Issue 16, Fall 2007/ Winter 2008, p 86,
http://www.Wilsoncenter.org/topics/pubs/CWIHP Bulletin16.
[26]Record of a conversation between P. F.
Yudin, soviet ambassador to the PRC, with Hoang Van Hoan, Vietnamese Ambassador
to the PRC, Secret
copy No 2 from the journal of P.F. Yudin 31 March 1954 No 283, AVP RF. F. 079,
Op.9,Por.15,Pap.7,Inv.7[6]0,II.6466,http://www.wilsoncenter.org/topics/docs/Reconsidering%20the%201954%20Geneva%20Conference.pdf.
[27] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, đề tài Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, 1945- 1954, phần thứ ba: Viện trợ vật chất của Trung Quốc
cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tlđd, tr 75- 76.
[28] Ngày 18 tháng 2 năm 1954, Ngoại
trưởng bốn nước Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô họp ở Berlin, Đức, ra thông cáo chung sẽ
tổ chức Hội nghị Geneva về Triều Tiên vào ngày 26 tháng 4 năm 1954, tại đó,
nhất trí sẽ thảo luận vấn đề vãn hồi hòa bình ở Đông Đương.
[30] Ilya V. Gaiduk, Confronting
Vietnam- Soviet policy toward the Indochina conflict, 1954- 1963, Ibid, p
17.
[31] Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại
giao Việt Nam, 1945- 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005, tr 141.
[32] U.S. Department of Defense, Office of
the Secretary of Defense, Vietnam task force, United States- Vietnam
relations 1945- 1967, Washingto, D.C 1967, The Geneva Accords,
B 9; U.S. Department of State, Foreign Relation of the United States 1952-
1954, Vol XVI, The Geneva Conference, Ibid, p 909.
[33] U.S. Department of State, Foreign
Relation of the United States 1952- 1954, Vol XVI, The Geneva Conference,
Ibid, p 976.
[34] Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự
Việt Nam, đề tài Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, 1945- 1954, phần thứ ba: Viện trợ vật chất của Trung Quốc
cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tlđd, tr 76.
[35] Dẫn theo Bộ Ngoại giao, Tổ Tổng kết,
Hồ sơ số 185, Thái độ của Trung Quốc trong Hội nghị Geneva, Điện của Chu Ân
Lai ngày 30 tháng 5 năm 1954, từ tờ số 2 đến tờ số 7.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện
Đảng, Toàn tập, tập 15, 1954, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr 165.
[37] U.S. Department of State, Foreign
Relation of the United States 1952- 1954, Vol XIII, Indochina, Part 2,
United States Government printing Office, Washington 1982, p 1445.
[38] Dẫn theo Bộ Ngoại giao, Tổ Tổng kết,
Hồ sơ số 185, Thái độ của Trung Quốc trong Hội nghị Geneva, Điện số 20 (của
VNDCCH gửi Trung Quốc), ngày 4 tháng 6 năm 1954, tờ số 1-2.
[39] U.S. Department of State, Foreign
Relation of the United States 1952- 1954, Vol XVI, The Geneva Conference,
Ibid, p 1126.
[40]Woodrow Wilson International Center
for Scholars, Cold war international history project, bulletin: Inside china’s
cold war, Issue 16, Fall 2007/ Winter 2008, p 48,
http://www.Wilsoncenter.org/topics/pubs/CWIHP Bulletin16.
[41] Bộ Ngoại giao, Tổ Tổng kết, Hồ sơ số
182, Điện của đồng chí Chu Ân Lai, số 1 ngày 10 tháng 7 năm 1954.
Abstract: DRV’s mobilizing support from USSR and
PRC, 1950- 1954
The
years from 1950 to 1954 saw tireless efforts made by DRV to rally support from
USSR and PRC- that is, DRV had to make some considerable revisions in both
domestic and foreign policies to meet demands from its own war and Soviet and
PRC. As a result, DRV conducted the war with all kind of aid from these two
major allies and, in fact, it is impossible to say that Soviet and PRC’s
support to DRV played an unimportant role in Vietnam’s war against French
colonist during the years mentioned.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!