Trần Đại Sơn
Sự nghiệp võ tài, văn
trị của vua Quang Trung đối với đất nước được nhiều trang sử ca ngợi là: một
nhà quân sự thiên tài,một nhà chính trị xuất chúng; tiếc thay, với chính
sách trả thù tàn bạo, triệt để của Triều Nguyễn sau những năm 1802 đã hủy hoại
hầu hết các thư tịch liên quan đến ông. Nhưng, dù vậy những dấu ấn oanh liệt một
thời đánh Nam dẹp Bắc, những cuộc chuyển quân chớp nhoáng thần kỳ của ông cùng
các công thần liệt tướng vẫn tồn tại trong nhân gian và trong những trang sử
hào hùng của dân tộc.
Nói đến Quang Trung -
Nguyễn Huệ chúng ta không chỉ dừng ở võ công, mà còn phải kể đến văn trị dù thời
gian trị vì đất nước của ông quá ngắn ngủi (1789 – 1792), nhiều dự định còn
dang dở; nhưng chỉ với chứng ấy cũng có thể đánh giá: ngài là một minh quân, một
nhà chính trị xuất chúng. Có một phản đề: nếu ngài không mất sớm (39 tuổi), thì
triều đại ấy, đất nước này sẽ đi đến đâu; rồi khẳng định: Triều đại ấy sẽ không
như nhà Lê mạt ở Thăng Long; hoặc chỉ lo “Cầu an, đạt lạc” như Thái Đức ở thành
Đồ Bàn (Bình Định) mà nhất định là một triều đại vua sáng tôi hiền, thái bình
thịnh trị, non sông thống nhất.
Quang Trung – Nguyễn
Huệ, một thiên tài quân sự, nhà chính trị xuất chúng là vấn đề lớn trong
lịch sử bàn mãi không hết, những trình bày sau cũng chỉ lướt qua niên biểu
về một nhân vật lịch sử mà thôi.
I. Vua Quang Trung -
một thiên tài quân sự
Thật không ngần ngại
khi cho rằng: Quang Trung - Nguyễn Huệ có thể sánh ngang với Thái úy Việt quốc
công - Lý Thường Kiệt (Triều Lý), Hưng đạo Đại vương - Trần Quốc Tuấn (Triều Trần)
là những thiên tài quân sự của Đại Việt ta trong lịch sử.Thiên tài quân sự cũng
và là võ nghiệp của ông có thể chia thành 3 giai đoạn sau:
1. Nguyễn Huệ một tướng
trẻ dũng cảm tài ba
Sớm bộc lộ tư duy chiến lược: Điều đầu tiên nhắc đến
là vị tướng trẻ là vai trò của ông khi Tây Sơn bắt đầu dựng nghiệp. Đây là một
“Phó thủ lĩnh”, nhà tham mưu chiến lược, vị tướng trẻ tuổi tài ba. Năm 1771,
Nguyễn Huệ 18 tuổi đã tham mưu với anh là Nguyễn Nhạc muốn khởi binh đánh chúa
Nguyễn phải “Danh chính”. Theo ông mà danh ấy “Phò hoàng Tôn, diệt ngoại thích”
nghĩa là: trước khởi binh đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, sau ủng hộ hoàng
tôn Nguyễn Phúc Dương. Thế rồi Tây Sơn quy tụ được nhiều kẻ sĩ, họ là những hảo
thủ: Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu,
Trương Mỹ Ngọc, Võ Xuân Hoài ...
Tiên phong mở rộng địa bàn: Như rồng thêm vây, hổ
thêm vuốt, khi lực lượng đủ mạnh, năm 1773 Tây Sơn bắt đầu ra quân mở rộng địa
bàn. Nguyễn Huệ xin làm tiên phong cho “đông tiến”, mà mục tiêu đầu tiên là
thành Đồ Bàn (Quy Nhơn). Trận này, quân của Nguyễn Huệ chém chết Lý Trình, hạ
thành Đồ Bàn, lợi thế nhanh chóng mở rộng vùng chiếm cứ từ Bình Định đến Phú
Yên. Với đòn đánh ngang hông, cơ nghiệp của chúa Nguyễn lung lay, nguy khốn. Lợi
dụng tình thế ấy, tháng 10.1774 chúa Trịnh Sâm sai Việp quận công Hoàng Ngũ
Phúc dẫn 3 vạn quân vượt sông Danh đánh vào Phú Xuân. Định vương Nguyễn Phúc
Thuần phải theo đường biển bôn tẩu vào Gia Định. Quân Tây Sơn buộc phải đối đầu
với quân Trịnh, nhưng thua ở Cẩm Sa phải lui về giữ Quy Nhơn.
Biến nguy thành an:
Phía Bắc quân Trịnh,
phía Nam quân Nguyễn, Tây Sơn bỗng trở nên nguy khốn.
Để “biến nguy thành
an”, Nguyễn Huệ bàn với Nguyễn Nhạc xin hàng quân Trịnh và hứa sẽ tiên phong
đánh Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc muốn dùng kế “Tọa sơn quan hổ đấu” để diệt gọn cả
quân Tây Sơn lẫn quân Nguyễn khi hai bên yếu sức rồi nhân cơ hội ấy tiêu diệt cả
hai nên đã chấp nhận sự đầu hàng của Tây Sơn. Vả lại “Lam sơn chướng khí thủy
thổ bất trị” ở phương nam đã làm cho quân Bắc mắc nhiều dịch bệnh, đau yếu,
trong quân trở nên bất ổn. Hàng Trịnh và quyết biến mưu hiểm đối phương thành đắc
kế của mình Nguyễn Huệ dẫn quân tiến vào Phú Yên. Với tài năng và mẫn giác quân
sự thiên bẩm, Nguyễn Huệ nhanh chóng đánh bại quân Nguyễn, mở rộng địa bàn vào
tận Khánh Hòa, qua đó quân Tây Sơn không yếu đi mà mạnh hơn lên về số lượng và
tinh thần chiến đấu. Hoàng Ngũ Phúc vô cùng thán phục vị tướng trẻ, và khen ông
là “Tây Sơn hiệu tiền tướng quân” (西山號前將軍 - vị tướng giỏi hàng đầu
của Tây Sơn) khi ông mới 23 tuổi.
Đánh Gia Định, đuổi quân Nguyễn: Tháng
9.1777, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ quân Tây Sơn hạ thành Gia Định, Tân
chính vương Nguyễn Phúc Dương, Thái vương Nguyễn Phúc Thuần và nhiều bộ tướng
Nguyễn bị diệt, duy Nguyễn Ánh giỏi lẩn mình nên trốn thoát ra biển rồi bôn
vong sang tận Xiêm La. Năm 1778, Tây Sơn thắng thế, Nguyễn Nhạc tự lên ngôi
Hoàng đế lấy niên hiệu Thái Đức, chọn thành Đồ Bàn làm kinh đô và phong Nguyễn
Huệ làm “Long Nhương tướng quân”, khi ông mới 25 tuổi.
Dùng kế hay dụ địch vào khu vực quyết chiến: Thoát khỏi việc truy
sát của Tây Sơn, Nguyễn Ánh bèn sai bọn Chu Văn Tiếp sang Xiêm cầu viện. Tháng
7.1784, vua Xiêm sai Chiêu Tăng, Chiêu Sương dẫn 5 vạn quân theo đường thủy
sang xâm lược Đại Việt. Tháng 1.1785 (tức tháng 12 năm Giáp Thìn), Nguyễn Huệ
chọn khu vực Rạch Gầm – Xoài Mút một đoạn sông ở phía bắc Mỹ Tho để lập thế trận,
rồi từng bước dụ địch vào đó để tiêu diệt. Thế rồi, một trận chiến ác liệt diễn
ra, trong thế bị động và bao vây quân Xiêm bị đánh tơi tả, Nguyễn Ánh cùng tàn
quân thoát chết chạy ra đảo Thổ Chu tiếp tục nuôi chí phục thù, và cứ mỗi nghe
nói đến Nguyễn Huệ lại run lên như thấy cọp.
2. Một Bắc Bình Vương
phò Lê ổn định Bắc Hà “việc dễ như trở bàn tay”
Năm 1782 ở Bắc Hà,
Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm chết, cuộc tranh chấp quyền lực giữa các phe nhóm Cán,
Tông làm cho tình hình thêm rối ren. Trong khi người có khả năng ổn định tình
hình là lão tướng Hoàng Ngũ Phúc mất không lâu sau khi rút đại quân của ông rút
khỏi thành Phú Xuân. Một thế cuộc mới mở ra. Nguyễn Huệ thuận kế của Nguyễn Hữu
Chỉnh, bất ngờ hạ thành Phú Xuân và dùng nó làm đại bản doanh để bớt lệ thuộc
vào Thái Đức Hoàng đế. Tháng 7.1786, dù chưa có lệnh của Thái đức Hoàng đế Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ với danh nghĩa “Phò lê diệt Trịnh” dẫn quân bản bộ tiến ra
Thăng Long trong sự ngờ vực của quần thần nhà Lê và sĩ phu Bắc Hà. Quân Trịnh
chưa đánh đã tan thành từng đám. Nguyễn Huệ vào Thăng Long xin yết kiến vua Lê
Hiển Tông, nhà vua đang ốm nặng. Lê Hiển Tông đã tại vị 47 năm, thọ 70 tuổi, là
vị vua ở ngôi lâu nhất cũng như thọ nhất trong các vua nhà Hậu Lê. Hiển Tông
phong Nguyễn Huệ là Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công và gả công
chúa Ngọc Hân trước khi ông trở lại Phú Xuân. Chuyện Nguyễn Huệ ra Bắc Hà không
làm hài lòng Hoàng đế Thái Đức, nhưng vẫn phong ông là “Bắc Bình vương” và giao
cho trông coi Bắc Hà. Tuy nhiên từ đây mâu thuẫn anh em trở nên sâu sắc[1],
nhưng dẫu sao Huệ vẫn có cái quyền ở Bắc Hà.
Năm 1787, Trịnh Bồng
tự lập lại ngôi Vương, hà hiếp vua Lê Chiêu Thống. Trấn thủ Nghệ An Nguyên Hữu
Chỉnh ra bắc ổn định tình hình; rồi có thể lợi dụng lúc Nguyễn Lữ thua ở Gia Định,
anh em Tây Sơn bất hòa, mà trở nên lộng hành. Nguyễn Huệ bèn phái Vũ Văn Nhậm
ra diệt Chỉnh. Dẹp được Chỉnh, Nhậm lại lộng hành chuyên quyền hơn cả Nguyễn Hữu
Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống buộc phải cầu viện Nhà Thanh mang binh sang đuổi Tây
Sơn để dựng lại nghiệp nhà Lê. Tháng 4.1788 trong sự ngỡ ngàng của người Bắc
Hà, Nguyễn Huệ ra Thăng Long giết Vũ Văn Nhậm cho dù y là phò mã của Thái Đức
Hoàng Đế Nguyễn Nhạc. Ông mời Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm giám quốc và giao
Bắc Hà cho các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở
quản trị Bắc Hà rồi lui về quân về Phú Xuân để lo việc phía Nam đang bị quân
Nguyễn lấn đánh.
3. Thần tốc, táo bạo,
quyết thắng chỉ huy chiến dịch Thăng Long
Cuối năm 1788, mượn cớ
Phù lê, 29 vạn quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy hộ tống
Lê Chiêu Thống vào Đại Việt. Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long, y tỏ ra kiêu ngạo
khinh địch lại coi thường đám vua tôi Nhà Lê. Chuyện kể rằng: hàng ngày Sĩ Nghị
bắt Chiêu Thống phải diện kiến, có hôm Chiêu Thống phải khoanh tay đứng chờ trước
Đại bản doanh của Nghị từ sớm đến trưa mà không được gọi vào. Dân nước Nam ngao
ngán, có người than rằng “Nước Nam ta từ khi có đế vương không có vị vua nào nhục
nhã đến thế”. Sĩ Nghị còn tỏ ra chủ quan, y nói “Giặc còn gầy, cứ để cho béo rồi
chúng sẽ tự dẫn thân đến dâng thịt cho ta”.
Phía Tây Sơn, trước
thế mạnh của quân Thanh, Ngô Văn Sở và những người quản trị Bắc Hà một mặt phái
Đô đốc Tuyết phi ngựa trạm vào Phú Xuân cấp báo, mặt khác tạm lui quân vào Biện
Sơn -Tam Điệp (Thanh Hóa, Ninh Bình) để lập phòng tuyến. Hay tin, ngày
22/12/1788 (tức 25 tháng 11 năm Mậu Dần), Nguyễn Huệ lập trai đàn ở núi Bân
chính thức lên ngôi Hoàng Đế lấy niên hiệu Quang Trung rồi tiến quân ra Bắc.
Ngày 26/12/1788, đến Nghệ An. Tại Phượng Hoàng Trung Đô (dưới chân núi Dũng Quyết)
nhà vua tiếp tục tuyển quân và nâng quân số lên 10 vạn, 200 thớt voi rồi hành
quân tiếp. Vua đến Tam Điệp vào ngày 15/1/1789 (tức 20 tháng chạp năm Mậu Dần).
Tại đây, nhà vua nói với các thân tướng: nay ta tới đây thân đốc việc binh,
phương lược đã có sẵn, chỉ nội mươi ngày nữa là phá tan quân Thanh, các ngươi
hãy vì ta mà gắng sức. Trước ba quân vua tự tuyên đọc chiếu diệt Thanh với
dọng điệu hùng tráng, tự tin, và đầy cảm khái:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để để răng đen
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ
Rồi lệnh tổ chức cho
quân sĩ ăn tết Kỉ Dậu trước khi xung trận.
Quả như lời phán: đêm
30 tháng chạp diệt đồn Gián Khẩu, ngày 1 tết diệt đồn Nhật Quyết, Nhật Tảo, Hà
Hồi. Ngày mồng 2 tết Kỉ Dậu bóc sạch các đồn tiền duyên của Thăng Long. Ngày 4
- 5 tết Kỉ Dậu hạ đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng là những đồn chính do quân Thanh
canh giữ. Địch dùng hỏa hổ, tên đồng chống cự quyết liệt nhưng không chặn được
sức tiến công của quân Tây Sơn bất ngờ như trên trời xuống. Tướng giặc Sầm Nghi
Đống chỉ huy đồn Ngọc Hồi – Đống Đa bất lực trước sức tiến công mãnh liệt của
quân Tây Sơn phải treo cổ tự vẫn. Hướng khác Đô đốc Tuyết, Lộc đi đường biển tiến
vào sông Nhị, Đô đốc Long đánh thốc vào tuyến phòng thủ Tây Long, Tôn Sĩ Nghi
cùng tướng sĩ rối loạn, táo tác dẫm lên nhau cuốn chạy qua sông Nhị Hà lên mạn
Bắc. Mồng 5 tết, vua Quang Trung chiến bào còn đẫm mùi khói súng, cưỡi voi dẫn
đại quân tiến vào “Chính Bắc Môn” trong tiếng hò reo vang trời dậy đất của ba
quân tướng sĩ và dân chúng Hà Thành.
II. Vua Quang Trung -
nhà chính trị xuất chúng
Xuất chúng nghĩa là
có tài năng hơn người về mọi mặt. Đối với vua Quang Trung dù công nghiệp văn trị
còn dang dở nhưng những gì nhà vua đang làm, dự định sẽ làm đủ chứng tỏ ông có
trí tuệ trác việt, tài năng xuất chúng của một bậc minh quân.
1. Khéo tập hợp lực
lượng, thu phục người tài
Đây là một phẩm chất,
một tài năng của mọi vị thủ lĩnh ai có điều này tất yếu thành công, như Khổng Tử
từng nói với Tề Ai Công về chính trị rằng “Làm chính trị cốt ở bầy tôi”, còn
người nước Nam có câu: “Thần thiêng cốt ở bộ hạ”. Ở Quang Trung từ khi khởi
nghiệp đã có những bộ tướng văn trí, võ tài chính nhờ họ mà chiếm thành Gia Định
(1777), đánh bại quân Xiêm ở Rạch Gầm- Xoài Mút (1785) chuyện khó mà vẫn thành
công. Chuyện lấy Phú Xuân để làm bản doanh và bàn đạp để ra Bắc Hà, vì lắng
nghe cái lý đúng Nguyễn Hữu Chỉnh (dù Chỉnh là một hàng tướng). Chuyện ông vào
Thăng Long (1786) nơi mà tư tưởng “Vi tử tận hiếu; vi thần chí trung” của Nho
giao cắm sâu trong tầng lớp sĩ phu. Thế nhưng, với thái độ ngay thẳng, rành mạch,
trí tuệ khác thường cộng với tác phong đường đường lẫm liệt, ông đã thu phục
các chí sĩ như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở… và chính họ đã góp công
lớn đánh thắng quân Thanh bằng “nước cờ Tam Diệp – Biện Sơn” có một không hai
trong lịch sử.
Khi đã là vua của một
nước Nguyễn Huệ chú trọng phát triển quốc gia vì vậy lấy việc cầu hiền sĩ, nhượng
đại phu làm trọng. Chuyện ông nhiều lần thăng sơn gặp Nguyễn Thiếp là một minh
chứng.Trong “Chiếu cầu hiền” có đoạn: "Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài
cao học rộng chưa từng thấy đến. Hay Trẫm ít đức không đáng để phò tá chăng?
hay đang thời đổ nát chưa thể ra phụng sự?... Trẫm nơm nớp lo nghĩ, một ngày
hai ngày cũng có hàng vạn sự việc nảy sinh Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một
cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình - sức một người không thể đảm
đương".
2.Hiểu lòng quân, lòng
dân, ra quân nắm chắc phần thắng
Chuyện Nguyễn Huệ gần
gũi binh sĩ, hiểu binh sĩ và nguyện vọng dân chúng có nhiều. Chỉ nêu một ví dụ:
hai lần ra Bắc Hà (1786 và 1787) ông chủ yếu dùng văn trị không dùng võ trị, đối
dân chúng. Nguyễn Huệ thu phục Ngô Thi Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Huy Ích và nhiều
văn thần nhà cựu lê; không ngần ngại giết Võ Văn Nhậm (cháu rể) một phần vì
sách lược, một phần cho người Bắc xóa đi nghi kỵ, hiềm khích vốn có từ trước.
Đối xử phải lễ với nhà Lê và chính sách ngoại
giao khôn khéo
Theo “Hoàng lê nhất
thống chí” sách ký sự lịch sử ghi chép tình hình Bắc Hà từ khi Đặng Thị Huệ đứng
đầu chính cung đến khi vua Cảnh Thịnh bị bắt. Hồi thứ 5 có tựa đề là “Phò chính
thống thượng công vào điện; Kết duyên lành công chúa lên xe” nói về cách ứng xử
“phải lễ” của Nguyễn Huệ với vua Lê Hiển Tông trong bối cảnh họ là kẻ yếm thế:
Tinh mơ sớm hôm sau, Bình (Nguyễn Huệ - TG) và Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh - TG) cùng vào điện Vạn Thọ để ra mắt nhà vua.
Quan hầu vào tâu, hoàng thượng đang ở trong điện, sai người vén màn lên, đưa
Bình vào hầu ở sập ngự. Bình sụp xuống đất lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái.
Hoàng thượng sai hoàng tử nâng Bình dậy, và mời đến ngồi vào một chiếc sập khác
ở bên trái sập ngự. Bình nhún nhường không dám ngồi. Hoàng thượng phải hai ba lần
dụ, Bình mới ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thõng xuống đất.
Hoàng thượng uý lạo hết sức ôn tồn. Bình nói:
- Thần
vốn là một kẻ hèn mọn ở đất Tây Sơn, gặp thời nổi dậy, chưa từng được mặc áo
của bệ hạ, ăn lộc của bệ hạ. Nhưng vì thánh đức của bệ hạ tràn đi xa rộng, nên
thần tuy ở chốn mọi rợ mà cũng vẫn một lòng kính mến. Ngày nay được thấy mặt
rồng, cũng là bởi tấm lòng chí thành như hoa quì (Bình muốn nói: lòng luôn luôn
hướng về nhà vua như hoa quì luôn luôn hướng về mặt trời) của thần xui khiến ra
vậy. Vả lại, cũng vì họ Trịnh vô lễ, lấn ép nhà vua đã lâu, cho nên hoàng thiên
mới mượn tay thần diệt trừ họ Trịnh, để tỏ oai quyền của bệ hạ. May được thành
công như thế này, thực cũng là nhờ phúc lớn của bệ hạ đưa đến. Nay thần chỉ cầu
mong thánh thể khoẻ mạnh, coi trị thiên hạ, cho thần được hưởng nhờ chút phúc
thừa.
Đoạn trên là minh chứng cho xử phải lễ với
nhà Lê của Nguyễn Huệ.
Sau khi đánh cho quân Thanh “tri nam quốc sơn
hà chi hữu chủ”, Nguyễn Huệ nói với quần thần rằng: Ta nghĩ, nước Thanh thua tất lấy làm hổ thẹn, chắc họ sẽ tìm cách rửa
hờn, nếu để binh lửa kéo dài thì khổ đến muôn dân lòng ta không nỡ, nên chi
giao việc bang giao cho Ngô Thì Nhậm, việc tùy cơ, Ngươi cứ khéo mà làm.
Việc này được Ngô Thì Nhậm bố trí tổ chức
thành sự kiện có một không hai trong lịch sử ngoại giao nước nhà. Đó là vào
tháng 1/1890, họ Ngô đã bố trí đưa giả vương Quang Trung cùng 150 tùy tùng sang
Yên Kinh Trung quốc để mừng lễ đại khánh của Càn Long, sự kiện chỉ xảy ra chỉ
một năm sau chiến thắng Tết Kỉ Dậu (1789).
Thực hiện chính sách khuyến học
Quang Trung giao Nguyễn Thiếp lập Sùng chính
Viện để chuyên lo việc tu thư và nghiên cứu sự học. Ông lệnh bỏ một số sách
giáo khoa Hán ngữ và dùng chữ nôm trong các văn bản quốc gia. Quang Trung quy
định các bài hịch, chiếu, biểu phải soạn bằng chữ Nôm; đề thi viết bằng chữ
Nôm, và các sĩ tử phải làm bài bằng chữ Nôm. Theo Tây Sơn lược thuật,
ông chọn một quan văn “5 ngày một lần vào cấm cung để giảng giải kinh sách”.
Ngoài ra, Quang Trung còn lệnh đưa việc học đến tận thôn xã. Trong “Chiếu
lập học” ông lệnh cho các xã: “Phải chọn Nho sĩ bản địa có học thức, có hạnh kiểm đặt làm thầy dạy,
giảng tập cho học trò”. Một trong bức chiếu của ông tìm
thấy ở Đồn Quy Hợp Hương Sơn Hà Tĩnh, viết bằng chữ nôm: “Chiếu truyền La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp khâm
tri, ngày trước giao cho phu tử về Nghệ An để xây đô thành, sao đã về đến đó
chưa”. Để thấy sự quan tâm đến dân trí, học vấn của muôn dân từ
một vị minh quân xuất chúng như thế nào.
Nhìn rõ thế cuộc
Một buổi chiều tháng
9.1792 (Nhâm tý), nhà vua bất ngờ đổ bệnh. Biết mình không qua khỏi ông để lại
di mệnh:
Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam
này. Nay đau ốm, tất không khỏi được.Thái tử có tư chất nhưng tuổi còn nhỏ.
Ngoài thì có quân Gia Định là quốc thù, mà Thái Đức thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ,
không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất,
việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên đô
về Vĩnh Đô[2]
để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn thân.
Những tiên đoán của Vua đều đúng, vì họ không
hợp sức đồng lòng, nghi kỵ chia rẽ nên sự thất bại là không tránh khỏi. Giả như
triều thần làm đúng di huấn của nhà Vua thì đâu đến họa diệt thân như lịch sử
đã diễn ra.
Hà Nội, 6.2014
-----------------
-----------------
1] Tỷ như, Nhạc ra tận
Thăng Long để điệu Huệ về Phú Xuân. Bắt Huệ vào chầu, nộp chiến lợi phẩm, nộp đất
Quảng Nam, giết công thần Nguyễn Thung, hà hiếp vợ con Huệ... hành động này buộc
Huệ phải dẫn quân vào đánh thành Quy Nhơn. Nhạc bất lực, đành phải lên mặt
thành khóc xin, nể tình anh em Nguyễn Huệ hồi quân về Phú Xuân.
[2] Vĩnh Đô, dưới chân
núi Dũng Quyết thành phố Vinh, nay do chữ
Vĩnh đọc thành chữ Vinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!