Lịch sử là một quá trình phát triển
thống nhất, hợp qui luật, qua các giai đoạn khác nhau. Vì vậy, những bài học,
kinh nghiệm của quá khứ đều có ích cho hoạt động trong hiện tại và việc dự đoán
tương lai. Song điều này chỉ có thể thực hiện được kết quả đối với những người
đấu tranh cho chính nghĩa, vì sự tiến bộ xã hội và nó trở thành vô nghĩa đối
với những ai muốn lấy những điều điểu giả trong quá khứ để biện minh cho sự
điểu cáng của mình trong hiện tại. Đây là trường hợp những kẻ đã thất bại trong
cuộc chiến tranh xâm lược trước đó muốn rút ra “những bài học” cho việc tiến
hành một cuộc chiến phi nghĩa mới. Họ mong rút ra từ những bài học lịch sử để
tiếp tục lao đầu vào một cuộc mạo hiểm mới và chuốc lấy thất bại.
Qua “Tấn thảm
kịch và những bài học về quá khứ”(1)
lịch sử đã nhiều lần cảnh báo những kẻ hiếu chiến này: “Hãy coi chừng những bài
học của quá khứ đối với tham vọng điên cuồng hiện tại!”.
Sau năm 1975, một câu hỏi được đặt ra cho
nhiều người Mỹ: “Vì sao Mỹ thất bại ở Việt nam?”. Nhiều đáp án đã được đưa ra.
Những kẻ luyến tiếc cho ánh hào quang rực rỡ trong gần 200 năm lịch sử nước Mỹ
(Tính đến năm 1975) đã cho rằng: “Hoa Kỳ thất bại trong chiến tranh vì đẫ không
thực sự cố gắng, không giữ được cho mình uy quyền và sức mạnh”. Một số kẻ hiếu
chiến thì khẳng định rằng: “Mỹ không biết đẩy mạnh leo thang chiến tranh!”.
Không ít người kết luận: Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam là do quân đội Mỹ bị đưa
đến chiến trường châu Á xa xôi, đầy cạm bẫy, gian nan. Tuy vậy, cũng có người
lần tìm đến sự thật về sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam, như Mc Namara – Nguyên Bộ
trưởng Quốc phòng dưới các thời tổng thống Giônxơn và Nicxơn. Ông ta cay đắng
thú nhận rằng, chiến tranh Việt Nam
của Mỹ là một “sai lầm, sai lầm khủng khiếp” và rút ra 11 nguyên nhân gây ra
thảm bại của Mỹ ở Việt Nam.
Trong số những nguyên nhân này cần nhấn mạnh đến nguyên nhân thứ ba: “Chúng ta
(Tức Mỹ – chú thích: PNL,
VNT) đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy một dân
tộc (Trong trường hợp này là Bắc Việt Nam và Việt Cộng) đấu tranh và hi sinh
cho lý tưởng và các giá trị của nó và cho đến hôm nay, chúng ta vẫn tiếp tục
đánh giá thấp chủ nghĩa dân tộc ở nhiều nước trên thế giới”(2).
Những nguyên nhân thất bại của Mỹ ở Việt Nam
mà Mc Namara nêu lên, xét cho cùng, nảy sinh từ bản chất cuộc chiến tranh xâm
lược, phi nghĩa của Mỹ, từ việc không nhận thức được sức mạnh truyền thống của
dân tộc Việt Nam, được nhân lên gấp nhiều lần, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chiến thắng của nhân dân Việt
Nam chứng tỏ rằng, cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ là “một sai lầm ngớ ngẩn
ghê gớm, con đẻ của một hỗn tạp kỳ quặc giữa sự hoang đường và tính kiêu ngạo,
mù quáng đối với lịch sử, sự tin tưởng ngây thơ về vai trò quyền lực đứng đầu
trên quả đất. Hoa kỳ đã sử dụng những giải pháp quân sự cho những vấn đề chủ
yếu là chính trị và văn hóa. Đây là một cuộc chiến tranh sai lầm, tại một địa
điểm sai lầm, ở một thời gian sai lầm, cho những lí lẽ sai lầm”(3).
“Bài học Việt Nam” liệu có được các nhà cầm
quyền Mỹ từ năm 1975 đến nay, đặc biệt Tổng thống Bush (cha) và đương kim Tổng
thống Bush (con) chú ý hay không, khi lao vào các cuộc chiến tranh Trung Đông?
Vấn đề này lại một lần nữa được đặt ra từ sau cuộc chiến tranh Iraq năm 2003
đến nay. Nhiều nhà khoa học, các chính trị gia, tướng lĩnh… thảo luận sôi nổi
vấn đề “Iraq: những bài học
rút ra từ Việt Nam”.
Melvin Laird, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ 1969 đến 1973, cho rằng: “Có lẽ bài
học duy nhất thường được nhắc tới là bài học bắt đầu và kết thúc bằng “Không
nên tới đó!”. Cuộc chiến tại Iraq chưa phải là “một Việt Nam thứ hai”; nhưng nó
có thể là như vậy nếu chúng ta tiếp tục coi Việt Nam là một vết cắn sâu mà quên
đi cái bài học thực sự”(4).
Nghị sĩ Edward Kennedy lại gọi Iraq
“ Việt Nam
của George Bush”. Một số người khác mệnh danh cho cuộc chiến Iraq là “chiến
tranh vì dầu mỏ”, lấy cớ “phổ biến nền dân chủ và tính ưu việt của tự do Hoa Kỳ
để biện minh cho sự can thiệp của Mỹ, và đặc biệt cho “một Việt Nam nữa”(5).
Trên cơ sở cái nhìn khái quát của những người
Mỹ hiện nay về mối quan hệ giưa chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) với
cuộc chiến tranh đang tiếp diễn ở Iraq, chúng tôi nêu một số ý kiến về những
bài học mà các nhà cầm quyền Mỹ, cũng như đông đảo nhân dân Mỹ cần tính tới.
Bởi vì, “đã đến lúc cần nhìn lại cuộc chiến tại Việt Nam
và Iraq
và bài học gì mà cuộc chiến thứ nhất có thể dạy chúng ta về cuộc chiến thứ hai”(6).
Không phải ngẫu nhiên mà vài ngày trước khi
quân Mỹ tiến quân đánh chiếm Iraq, các đài truyền hình Mỹ đã đưa lên mành ảnh
cảnh các nhân viên Đại sứ quán Mỹ rút chạy bằng trực thăng từ nóc tòa Đại sứ Mỹ
ở Sài Gòn vào những ngày cuối tháng 4 – 1975. Chắc chắn Tổng thống Bush, bất
chấp sự phản đối của nhiều nước trong đó có các đồng minh Pháp, Đức, không chờ
lệnh của Liên Hợp Quốc, tiến đánh Baghdad, không muốn một kết cục bi thảm như
vậy, khi tìm một cái cớ để đưa quân vào Iraq. Phải chăng, ông đã nghĩ đến cái
cớ mà Jonhson đã dựng lên với “Sự kiện Vịnh Bắc bộ”? Tính chất giả dối của “Sự
kiện Vịnh Bắc bộ” được báo chí Mỹ vạch trần, song nó cũng đem lại cho Jonhson
quyền lực mà ông ta mong mong muốn để thuyết phục dư luận Mỹ về “sự tấn công
của Bắc Việt Nam”. Ngày 7 – 8 – 1964, một nghị quyết được đệ trình, theo đó cho
phép “Tổng thống có quyền sử dụng bất cứ hành động nào, kể cả việc sử dụng vũ
lực chống lại Bắc Việt Nam”(7).
Trong chiến tranh Iraq (2003), Mỹ cũng viện vào cái cớ Saddam Hussein có vũ khí
hủy diệt hàng loạt để tấn công nước này mà trên thực tế Mỹ đã không tìm được
bằng chứng gì về laọi vũ khí này khi tiến vào Baghdad. Dù sao thì chế độ Saddam
Hussein đã bị lật đổ, Mỹ đã chiếm Iraq. Phải chăng đây là “bài học về
việc đã rồi” mà Bush đã rút kinh nghiệm của Jonhson khi đưa quân vào trực tiếp
xâm lược Việt Nam?
Bối cảnh lịch sử mà mỹ mở rộng cuộc chiến ở
Việt Nam khác với điều kiện quốc tế mà Tổng thống G. Bush tiến hành cuộc chiến
tranh ở Iraq, dù ý đồ “bá chủ toàn cầu” của Mỹ về cơ bản không thay đổi.
Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân Việt Nam kết thúc thắng lợi (1954), Mỹ đã nhận thấy nguy cơ “lán sóng cộng
sản” sẽ từ Việt Nam lan rộng Đông Nam Á, rồi cả châu Á, ảnh hưởng mạnh mẽ đến
cuộc đấu tranh của nhân dân thé giới cho độc lập dân tộc và tiến bộ thế giới.
Mỹ “tự nhận lãnh trách nhiệm chấm dứt sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản”, bằng
cách gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam để “bảo vệ thế giới tự do”.
Thực chất, đây là chiến lược tiến hành “một cuộc chiến tranh cục bộ trong điều
kiện chiến tranh lạnh”. Ý đồ của Mỹ đã thất bại vì cuộc chiến đấu anh dũng của
nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự ủng hộ,
phối hợp đấu tranh của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.
Cuộc chiến tranh Iraq nổ ra khi chiến tranh
lạnh đã chấm dứt, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã tan vỡ, Mỹ
muốn vươn lên đứng đầu thế giới với vị trí “một cực”. Để xác định nhiệm vụ của
mình trong tình hình mới của thế giới, Tổng thống Bush đã giải thích: “Sự lan
rộng của chủ nghĩa cộng sản là điều có thật trong thập kỷ 60 (của thế kỷ XX – chú thích: PNL, VNT) cũng
như sự lan rộng của phái Hồi giáo cấp tiến cũng là một điều có thật hiện nay.
Nó là một nỗi lo sợ tiềm ẩn cho tới ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi mà nó cho
thấy khả năng đe dọa chúng ta. Iraq
là một địa điểm hợp lý để đánh trả chính quyền có tính thực dụng, một cơ sở hạ
tầng hiện đại và dân chúng sẵn sàng lật đổ người cầm quyền của mình. Quân đội
của chúng ta không chỉ chiến đấu ở đó để bảo vệ quyền bầu cử của người Iraq. Họ chiến
đấu để bảo tồn một nền văn hóa hiện đại, nền dân chủ phương Tây, nền kinh tế
toàn cầu và tất cả những gì bị đe dọa, bởi sự lan rộng của chủ nghĩa khủng bố
dưới tên gọi tôn giáo”(8).
Có lẽ thực tiễn cuộc chiến tranh Việt Nam
càng làm cho các nhà cầm quyền Mỹ suy nghĩ về chiến lược “lấy lòng dân” của
mình trong cuộc chiến ở Iraq hiện nay. Ở Việt Nam trước đây, Mỹ giương cao nộn
cờ “thế giới tự do”, “nền dân chủ Hoa Kỳ”, “thiên đường Mỹ” để chống lại “chế
độ độc tài cộng sản”, “địa ngục trần gian ở Bắc Việt”, “hiểm họa cộng sản ở
Đông Nam Á”, song những cuộc càn quét man rợ vào những vùng giải phóng, vụ đồu
độc tù nhân ở nhà tù Phú Lợi, vụ thảm sát hơn 500 dân thường ở làng Mỹ Lai (Sơn
Mỹ, Quảng Ngãi) và bao nhiêu sự cướp bóc, hãm hiếp, giết chóc của binh lính Mỹ,
ngụy và chư hầu đã bóc trần mọi lời tuyên truyền lừa bịp của Mỹ. Sự dối trá này
là một trong những nguyên nhân làm cho Mỹ thất bại ở Việt Nam – nơi mà dân
chúng đã nhận thức và quyết tâm đi theo nhà lãnh đạo có quyền lực và uy tín là
Hồ Chí Minh “đã gieo vào lòng họ các mục tiêu dân tộc đáng khâm phục”(9).
Ở Iraq
chúng ta cũng nhận thấy không ít sự việc tương tự đã xẩy ra tại Việt Nam trước đây.
Chống khủng bố là yêu cầu của nhân dân thế giới, song Mỹ đã lợi dụng việc chống
khủng bố, nhân danh “những người tiên phong chống khủng bố” để thực hiện ý đồ
mở rộng quyền lực độc tôn của mình, tiêu diệt các lực lượng yêu nước. Dường như
Mỹ muốn diễn lại màn kịch “chống cộng sản”, “chống độc tài” để phá vỡ “trật tự
hai cực”, làm suy yếu Liên Xô để vươn lên hàng đầu. Việc chính quyền Mỹ bắt giữ
tù nhân mà không xét xử, hoặc không có bản án, việc Mỹ di chuyển tù nhân sang
các nước khác một cách bí mật, lẩn tránh các cuộc thanh tra của Hội chữ thập đỏ
quốc tế, cảnh đánh đập, làm nhục các tù nhân ở Iraq, Afghanistan, Guantanamo làm
thế giới bàng hoàng, xấu hổ đã phơi bày bộ mặt thực của “nền dân chủ Mỹ”, đang
quảng bá khắp nơi.
Cũng như cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
trước đây, chính quyền của Tổng thống Bush muốn xây dựng một chính quyền bản
địa mạnh để đảm nhận việc quản lý đất nước và Mỹ sớm rút quân về nước sau khi
hoàn thành “sứ mệnh” lật đổ chế độ độc tài Saddam Hussein. Gần đây hai chuyên
gia về Việt Nam của Mỹ là Jeffrei Record và W. Andrew Terrill đã hoàn thành
việc nghiên cứu cho Học viện quân sự Hoa Kỳ một đề tài nhằm so sánh toàn diện
hai cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành ở Việt Nam trước đây và Iraq ngày nay, để
rút ra được bài học, kinh nghiệm gì cho chiến thắng ở Iraq mà họ không thể có
được đối với Việt Nam. Hai nhà nghiên cứu này đã đi đến kết luận rằng, trong hai
cuốc chiến tranh ở Việt Nam và Iraq, Hoa kỳ đều muốn thành lập một chính phủ
hợp pháp do người bản địa nắm giữ, song nằm dưới “ô bảo hộ”, “sự trợ giúp” của
Mỹ mà trong thời gian đầu phải có “sự trợ giúp của quân đội Mỹ”. Về điều này Mỹ
đã từng thất bại ở Việt Nam
và tự xem là đang không thành công ở Iraq. Ngoài những nguyên nhân chủ
quan, riêng của mỗi nước, có một nguyên nhân liên quan đến Mỹ mà Mỹ cần rút
kinh nghiệm. Đó là mục tiêu thành lập một chính phủ “dân chủ”, “độc lập”, song
thực sự lại là một chính phủ bù nhìn của Washinton. Các chính phủ này muốn tỏ
ra đứng vững trên đôi chân của họ, cũng như Mỹ muốn họ thật sự lớn mạnh để sớm
rút quân về nước, sau khi thực hiện “cuộc chiến tranh vì tự do”. Song ở Việt Nam cũng như ở Iraq những người cầm đầu các chính
phủ bù nhìn lại không thể tập hợp, đoàn kết được các tầng lớp nhân dân nước
mình, bởi vì họ quá lệ thuộc vào Mỹ.
Do đó, bài toán “Không có Mỹ mà vẫn có Mỹ để
cho các chính phủ được lập ra được đứng vững” quả là nan giải mà Mỹ đã khoanh
tay thất bại ở Việt Nam và
vẫn chưa có lời đáp cho vấn đề Iraq.
Mỹ đã sa lầy ở Việt Nam và đang sa lầy ở Iraq. Hơn 58.195 quân sĩ Mỹ “đã
chết vô nghĩa” ở Việt Nam và mỗi khi đi qua “Đài tưởng niệm chiến tranh Việt
Nam” ở Washinton, người dân Mỹ chưa hiểu “những người này đã chết vì ai? Vì cái
gì?” (Có phải vì nước Mỹ, vì nền dân chủ Hoa Kỳ!)(10).
Trong gần 4 năm, sau khi chiến tranh Iraq nổ ra (2003) đến nay, đã có trên
3.000 lính Mỹ chết. Sự đấu tranh của những ngfười cha, người mẹ đòi đưa con em
họ từ chiến trường Iraq
trở về nhà ngày càng mạnh. Sức ép của dư luận quốc tế đòi Mỹ phải kết thúc cuộc
chiến, được tiến hành “qua một liên hợp”, làm cho Mỹ thêm lúng túng.
Bài học ở Việt Nam về việc “Mỹ rút quân” và
tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh” liệu có giúp gì cho Mỹ trong việc rút quân
khỏi Iraq và “Iraq hóa chiến tranh”. Một số tướng lĩnh Mỹ đã tham gia cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954 – 1975) cũng đã đề cập đến bài học “Mỹ rút
quân” và “chấm dứt chiến sự” ở Việt Nam trong cuộc chiến ở Iraq ngày nay, song
“rút quân và chấm dứt chiến tranh như thế nào?” lại phải bàn cãi. Có người cho
rằng “Chúng ta đã bị chậm trễ trong quá trình Việt Nam
hóa; tuy nhiên vẫn có một số nguyên tắc mà chúng ta đã tuân thủ trong cuộc
chiến tranh Việt Nam có thể
vẫn hữu ích đối với cuộc chiến tranh tại Iraq. Nguyên tắc quan trọng nhất là
chính phủ phải tuân theo một chuẩn mực về trình độ đối với lực lượng an ninh
tại Iraq, và khi đã đạt tới chuẩn mực này, quân đội Mỹ cần phải được rút dần
tương ứng với quân số của lực lượng an ninh được thiết lập. Đó là cách thức có
hiệu quả tại Việt Nam, từ lần rút quân đầu tiên là 50.000 người năm 1969 cho
đến khi người lính cuối cùng lên máy bay vào tháng 1 – 1973”(11).
Tuy nhiên, tương quan lực lượng giữa Mỹ và
các đối phương trên chiến trường Việt Nam
và Iraq
rất khác nhau. Ở Việt Nam, Mỹ phải rút quân và thực hiện chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh”, vì Mỹ đã thất bại trước sức mạnh kháng chiến của nhân dân
Việt Nam , đã làm cho các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục
bộ” lần lượt bị phá sản và không đối phó được cuộc chiến tranh nhân dân “Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Ở Iraq,
Mỹ đang còn ưu thế, đang tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang người Iraq để thay
cho quân Mỹ rút dần theo sức ép của nhân dân trong nước và dư luận quốc tế. Tuy
nhiên, Mỹ đang gặp nhiều mâu thuẫn trong việc rút quân và kết thúc chiến tranh:
Mâu thuẫn giữa khả năng tự bảo vệ và xây dựng đất nước của chính phủ Iraq với
việc quân Mỹ phải rút quân để tránh cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới và
trong nước, để tránh cuộc tấn công liên tục, mạnh mẽ của những người Iraq nổi
dậy chống quân Mỹ chiếm đóng; mâu thuẫn giữa việc thành lập một chính phủ thống
nhất và sự chia rẽ ngày càng sâu sắc, gay gắt giữa các thế lực trong xã hội Mỹ,
giữa các phe phái Hồi giáo… Việc rút quân và “Iraq
hóa chiến tranh” theo bài học ở Việt Nam thật khó thực hiện.
Cuộc chiến tranh Việt Nam luôn hiện lên trong lòng nước Mỹ, trong dư
luận thế giới và trên chiến trường Iraq. Rút bài học cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam cho cuộc chiến Iraq đối với người Mỹ không khó, song việc nhà
cầm quyền Mỹ vận dụng như thế nào thật là một bài toán không dễ. Tuy nhiên, một
điều mà các nhà cầm quyền Mỹ cần chú ý đến bài học của cuộc chiến tranh Việt
Nam cho cuộc chiến Iraq ngày nay là phải thực sự tôn trọng độc lập, chủ quyền
của các dân tộc, phải tính đến sức mạnh “đấu tranh và hi sinh cho lý tưởng và
các giá trị của nó” mà Mc Namara đã rút ra từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân Việt Nam.
(Đăng trên Tạp chí Lịch sử quân sự năm 2006)
(1)
Dựa theo nhan đề quyển sách của Robert Mc Namara: Nhìn lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học về Việt
Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
(2)
Robert Mc Namara: Nhìn lại
quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1995, trang 316.
(3)
J. S. Olson, Q. Robert, Where
the domino fell, America and Vietnam, 1945 – 1995, second edition,
St Martin’s press, New York, 1996, p. 286.
(4)
Melvin Laird, Iraq: Learning the Lessons of Viet Nam,
Foreign Affairs, November – December 2005, p. 24.
(5)
Melvin Laird, Iraq: Learning the Lessons of Viet Nam,
Foreign Affairs, November – December 2005, p. 24.
(6)
Melvin Laird, Iraq:
Learning the Lessons of Viet
Nam, Foreign Affairs, November – December
2005, p. 25.
(8)
Melvin Laird, Iraq: Learning the Lessons of Viet Nam,
Foreign Affairs, November – December 2005, p. 34.
(9)
Melvin Laird, Iraq: Learning the Lessons of Viet Nam,
Foreign Affairs, November – December 2005, p. 36.
(10)
Theo số liệu của Trung tâm Lịch sử quân sự Mỹ (US Army Center of Military
History, Washington DC, 1995.
(11)
Melvin Laird, Iraq: Learning the Lessons of Viet Nam,
Foreign Affairs, November – December 2005, p. 29.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
XIN CHÀO! NẾU CÓ NHẬN XÉT, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI LUÔN CÁM ƠN VÌ NHỮNG GÓP Ý CHÂN THÀNH!